Tài sản cố định là nguồn lực quyết định khả năng cạnh tranh của một DN sản xuất nói chung. Để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, nâng cao năng lực cạnh tranh thì việc đầu tƣ đổi mới cơ sở vật chất là vấn đề cần thiết và mang tính khách quan, bên cạnh đó, việc quản lí và nâng cao năng lực sử dụng tài sản cố định đã có là vô cùng quan trọng. Kế toán tài sản cố định là một trong những kênh thông tin quan trọng để cung cấp thông tin hữu ích cho việc quản lí, kiểm soát tình hình sử dụng, đánh giá hiệu quả sử dụng cũng nhƣ phục vụ cho việc ra quyết định đầu tƣ mới đối với tài sản cố định. Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, với việc ban hành “Luật Kế toán”, “26 Chuẩn mực kế toán (CMKT)” và “chế độ kế toán (CĐKT)” hiện hành, kế toán Việt Nam phần nào đã đáp ứng đƣợc yêu cầu và từng bƣớc hoà nhập đƣợc với khuôn mẫu chung của quốc tế về kế toán. Tuy nhiên, các chuẩn mực kế toán của Việt Nam đƣợc ban hành trên cơ sở chọn lọc để phù hợp với điều kiện Việt Nam và không thay đổi từ khi ban hành chuẩn mực nên nhiều quy định trong chuẩn mực kế toán của Việt Nam đã không còn phù hợp với thực tế, không đáp ứng đƣợc yêu của hội nhập và đảm bảo tính hội tụ với khuôn mẫu hiện hành của quốc tế. Điều này đòi hỏi phải có những nghiên cứu nhằm thấy rõ đƣợc những khác biệt của Việt Nam với khuôn mẫu chung của quốc tế về kế toán nói chung và kế toán TSCĐ nói riêng. Từ đó cho thấy các nội dung kế toán cần thực hiện khi phải chuyển đổi sang áp dụng lập và trình bày BCTC theo “IFRS”. Đề án “áp dụng chuẩn mực BCTC tại Việt Nam” đƣợc “Bộ trƣởng Bộ Tài chính phê duyệt theo quyết định số 345/2020/QĐ-BTC ngày 16/3/2020”. Đề án đƣợc ra đời trong bối cảnh các khuôn mẫu kế toán của Việt Nam ngày càng bộc lộ những hạn chế, nhiều nội dung không còn phù hợp hoặc không giải quyết đƣợc những giao dịch phát sinh đa dạng của kinh tế thị trƣờng trong giai đoạn hiện nay, bởi kế toán của Việt Nam còn thiếu rất nhiều các khuôn mẫu trong các lĩnh vực thuê tài sản, giá trị hợp lý, công cụ phái sinh dẫn đến không đủ các cơ sở pháp lý cho các DN Việt Nam khi xử lý kế toán các giao dịch. Đề án đã đƣa ra đối tƣợng và lộ trình áp dụng khuôn mẫu kế toán: “các DN có nhu cầu, đủ khả năng và nguồn lực áp dụng IFRS, đƣợc xác định theo từng giai đoạn phù hợp với lộ trình đƣợc công bố; và các DN khác thuộc mọi lĩnh vực, thành phần kinh tế hoạt động tại Việt Nam áp dụng VFRS”. Với đề án này buộc các DN Việt Nam nói chung và các DNNY sẽ phải tự xác định, xây dựng cho mình các bƣớc đi phù hợp với sự phát triển của DN mình. Với từng bƣớc đi, từng sự lựa chọn áp dụng là cả sự thay đổi có tính cốt lõi của kế toán DN
Đất nước ta đang trên đà phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với đó là nhu cầu sử dụng năng lư ...
Hiện nay tình trạng giết mổ gia súc, gia cầm thủ công tự phát đang xảy ra ở rất nhiều nơi. Với số lượng điểm giết mổ ...
Đặt vấn đề Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra cho sự nghiệp đổi mới đất nước, đó là ph ...
Tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày càng được ứng dụng phục vụ công cuộc chăm sóc sức khỏe con người nhiều hơn.Kỹ ...
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về " ...
Hỗ trợ download nhiều Website
Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay
Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay