Ngày nay, kiểm toán đã trở thành nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế của các quốc gia. Nhiều công ty lớn sẵn sàng chi hàng triệu đô la mỗi năm cho việc thuê kiểm toán độc lập. Câu hỏi đặt ra là tại sao họ lại sẵn sàng chi một khoản tiền lớn như vậy cho một cuộc kiểm toán. Một số người cho rằng đó là do luật pháp yêu cầu bắt buộc phải kiểm toán. Tuy nhiên, câu trả lời này chỉ đúng trong một số hoàn cảnh nhất định. Rõ ràng, kiểm toán vẫn được sử dụng trong rất nhiều trường hợp luật pháp không yêu cầu và bản thân các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán cũng đã sử dụng dịch vụ kiểm toán từ lâu, trước khi luật chứng khoán yêu cầu điều này. Có thể nói, kiểm toán đóng một vai trò quan trọng trong việc giám sát các mối quan hệ giữa các cổ đông, nhà quản lý, nhân viên và chủ nợ. Kiểm toán cũng làm gia tăng niềm tin của người sử dụng đối với thông tin mà đơn vị cung cấp. ‘Nói cách khác kiểm toán không chỉ đáp ứng yêu cầu quản trị trong nội bộ doanh nghiệp, mà còn đáp ứng cả nhu cầu của người sử dụng thông tin báo cáo tài chính bên ngoài với trách nhiệm và sự thận trọng nghề nghiệp đúng mực. Mặc dù mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cho nền kinh tế, nhưng bản thân kiểm toán lại phải đối mặt với không chỉ các chỉ trích mà còn là các vụ kiện tụng, yêu cầu bồi thường thiệt hại từ phía người sử dụng thông tin mỗi khi xuất hiện các vụ sụp đổ, phá sản của các công ty, tập đoàn. Điều này dẫn đến suy giảm uy tín nghề nghiệp kiểm toán, giảm niềm tin của người sử dụng thông tin hoặc công chúng đối với vai trò của kiểm toán. Một trong những nguyên nhân của vấn đề này, theo Liggio (1974) và nhiều nhà nghiên cứu khác như Porter (1993), Swift và Dando (2002), Lee và cộng sự (2009), Fulop (2017) là do khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán. Sau khi xuất hiện lần đầu tiên trong nghiên cứu của Liggio (1974), khoảng cách kỳ vọng đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Có nghiên cứu đã chứng minh rằng sự chỉ trích của công chúng đối với kiểm toán viên là không đúng vì chúng xuất phát từ những kỳ vọng quá mức, hay do nhận thức chưa đúng về bản chất, hạn chế vốn có của kiểm toán từ phía người sử dụng thông tin khiến cho họ đặt ra những yêu cầu quá cao đối với nghề nghiệp kiểm toán hay đánh giá chưa đúng hiệu quả thực tế công việc kiểm toán (Swift và Dando, 2002; Salehi, 2007; Enofe và cộng sự, 2013; Dibia, 2015; Awuor, 2018). Tuy nhiên, cũng có nghiên cứu cho thấy kiểm toán viên phải chịu một phần trách nhiệm liên2 quan đến những thiệt hại của người sử dụng thông tin trên báo cáo kiểm toán vì họ đã không có đủ nỗ lực, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, chưa đủ năng lực hay vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong quá trình thực hiện công việc của mình (Salehi, 2007; Lee và cộng sự, 2009; Kamau, 2013; Fulop, 2017). Bên cạnh đó, các chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán chưa được đầy đủ, rõ ràng cũng khiến cho kiểm toán viên dù thực hiện theo đúng quy định vẫn không đạt được những kỳ vọng hợp lý của người sử dụng thông tin (Salehi, 2007; Agyei và cộng sự, 2013; Alani, 2014; Ghandour, 2019). Nhưng nhìn chung, các nghiên cứu đều tin rằng sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng có ảnh hưởng rất lớn tới niềm tin của công chúng đối với kiểm toán cũng như gây ra những vụ kiện tụng kéo dài giữa người sử dụng thông tin với kiểm toán viên hoặc công ty kiểm toán. Porter và cộng sự (2005) đã cho rằng khi độ tin cậy, uy tín của nghề nghiệp kiểm toán bị suy giảm đến một mức độ nào đó, vai trò của nghề nghiệp này sẽ trở thành vô dụng. Trong một số trường hợp, kiểm toán viên có thể cảm thấy bất mãn vì kết quả công việc mà họ thực hiện đã không được ghi nhận, đánh giá đúng cũng như họ đang phải chịu áp lực, đòi hỏi không hợp lý từ phía công chúng. Khoảng cách kỳ vọng không chỉ ảnh hưởng xấu tới sự tồn tại và phát triển của ngành nghề kiểm toán mà còn gây ra những bất lợi đáng kể đối với sự bền vững của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Onulaka (2014) đã chỉ ra rằng khoảng cách kỳ vọng có ảnh hưởng tiêu cực tới khối lượng các giao dịch trên thị trường chứng khoán hay Farasangi và Noghondari (2017) cho thấy khoảng cách kỳ vọng có ảnh hưởng mang ý nghĩa thống kê đối với các khoản nợ mất khả năng thu hồi của ngân hàng. Tuy nhiên, cho dù muốn hay không, các nhà nghiên cứu đều phải thừa nhận rằng sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng là tất yếu khách quan và là một vấn đề không thể né tránh đối với nghề nghiệp kiểm toán. Vấn đề cần thiết là phải thu hẹp khoảng cách này để xây dựng lòng tin của các bên, đặc biệt là của công chúng đối với kết quả kiểm toán. Do vậy, các nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng, tìm hiểu cấu trúc khoảng cách kỳ vọng và các nhân tố ảnh hưởng là cần thiết, góp phần giảm khoảng cách kỳ vọng đến mức thấp có thể chấp nhận được.
Đất nước ta đang trên đà phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với đó là nhu cầu sử dụng năng lư ...
Hiện nay tình trạng giết mổ gia súc, gia cầm thủ công tự phát đang xảy ra ở rất nhiều nơi. Với số lượng điểm giết mổ ...
Đặt vấn đề Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra cho sự nghiệp đổi mới đất nước, đó là ph ...
Tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày càng được ứng dụng phục vụ công cuộc chăm sóc sức khỏe con người nhiều hơn.Kỹ ...
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về " ...
Hỗ trợ download nhiều Website
Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay
Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay