Đánh giá hạch nách là bƣớc không thể thiếu trong chẩn đoán và điều trị ung thƣ vú. Tình trạng hạch nách có hoặc không di căn là yếu tố tiên lƣợng chính. Mức độ di căn hạch nách không chỉ đánh giá giai đoạn bệnh mà còn quyết định lựa chọn phác đồ điều trị trong thực hành lâm sàng [1],[2],[3]. Hội nghị Quốc tế về Ung thƣ Vú St Gallen năm 2003 đã thống nhất: “không nạo vét hạch nách cho các bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm, có kết quả sinh thiết hạch cửa âm tính”. Sinh thiết hạch cửa trở thành một phƣơng pháp thƣờng quy trong phẫu thuật điều trị ung thƣ vú giai đoạn sớm [4]. Hạch cửa trong ung thƣ vú đƣợc định nghĩa: “là một hoặc một số hạch đầu tiên tiếp nhận dẫn lưu bạch huyết hoặc di căn ung thư từ vú đến”. Khi hạch cửa âm tính thì hầu nhƣ các hạch nách còn lại cũng chƣa có di căn. Vì thế, vét hạch nách triệt căn trở nên không cần thiết cho những trƣờng hợp ung thƣ vú giai đoạn sớm [5],[6]. Cắt tuyến vú với vét hạch nách theo các chặng đƣợc coi là “kinh điển” trong điều trị phẫu thuật ung thƣ vú từ nhiều năm qua, với một tỷ lệ hạch âm tính giả rất thấp dƣới 2% [7],[8],[9],[10]. Tuy vét hạch nách giúp đánh giá chính xác nhất trong xếp giai đoạn, tiên lƣợng và giúp hƣớng dẫn điều trị bổ trợ tiếp theo, nhƣng vét hạch nách có thể gây ra biến chứng chảy máu, đọng dịch 10-52%, phù bạch huyết cánh tay 15-30% tổn thƣơng thần kinh vùng nách, đau, tê bì 78% giảm chức năng vận động khớp vai và ảnh hƣởng chất lƣợng sống của ngƣời bệnh [11],[12],[13]. Chỉ 20-30% ung thƣ vú với kích thƣớc u dƣới 20mm có di căn hạch, điều đó có nghĩa trên 70% vét hạch nách là không thực sự cần thiết ở giai đoạn này [14],[15],[16],[17],[18]. Nhƣ vậy ở giai đoạn sớm, vét hạch nách không cải thiện tỷ lệ sống thêm mà còn làm tăng biến chứng [19],[20],[21],[22],[23]. Tại Việt Nam, sàng lọc và phát hiện sớm ung thƣ vú là một trong những trọng điểm của Chƣơng trình Mục tiêu Quốc gia Phòng chống Ung thƣ. Nhờ tiến bộ của các chƣơng trình trên, ngày càng có nhiều bệnh nhân đƣợc chẩn đoán sớm, khi mà nguy cơ di căn hạch nách còn rất thấp, nhất là đối với các khối u có kích thƣớc nhỏ, dƣới 20mm. Krag D.N (1993), Giuliano A.E (1994), Albertini J.J (1996) là những ngƣời đầu tiên ứng dụng phƣơng pháp hiện hình và sinh thiết hạch cửa trong ung thƣ vú giai đoạn sớm [24],[25],[26]. Đến nay, phƣơng pháp này đã trở thành thƣờng qui ở nhiều nƣớc trên thế giới, việc lựa chọn phƣơng pháp lập bản đồ bạch huyết và hiện hình hạch cửa bằng nhuộm màu đơn thuần hay kết hợp với đánh dấu phóng xạ, tùy thuộc vào điều kiện mỗi quốc gia, kinh nghiệm của từng phẫu thuật viên. Tuy nhiên, kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy độ chính xác và tỷ lệ âm tính giả của cả hai phƣơng pháp là không có sự khác biệt [5],[27],[28],[29],[30]. Một số tác giả nhận thấy chỉ cần phƣơng pháp nhuộm màu đơn thuần đánh giá tình trạng hạch nách cũng đem lại hiệu quả cao, tỷ lệ âm tính giả và tỷ lệ nhận diện hạch cửa đƣợc cải thiện theo kinh nghiệm của phẫu thuật viên [31],[32],[33],[34]. Trên thế giới đã có nhiều công trình ứng dụng xanh methylene để hiện hình hạch cửa với mức thành công và biến chứng chấp nhận đƣợc [20],[35]. Tại Việt Nam đã có một số tác giả: Trần Tứ Quý (2008), Trần Văn Thiệp (2010), Lê Hồng Quang (2012) và Nguyễn Đỗ Thùy Giang (2014) nghiên cứu bƣớc đầu và cho kết quả khích lệ về các chỉ số đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu và giá trị của sinh thiết hạch cửa bằng phƣơng pháp nhuộm màu xanh methylene [5],[27],[30],[36],[37]. Tuy nhiên, các nghiên cứu về hạch cửa còn hạn chế về số lƣợng và các khía cạnh chuyên sâu để khảo sát kết quả sống thêm, tái phát, di căn ở nhóm chỉ sinh thiết hạch cửa trong điều trị ung thƣ vú giai đoạn sớm. Chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm nghiên cứu ứng dụng phƣơng pháp sinh thiết hạch cửa với các mục tiêu sau: 1. Khảo sát kết quả hiện hình hạch cửa, đánh giá tình trạng di căn hạch nách trong điều trị ung thư vú giai đoạn sớm bằng phương pháp nhuộm màu. 2. Đánh giá kết quả ứng dụng sinh thiết hạch cửa trong điều trị phẫu thuật ung thư vú giai đoạn sớm tại Bệnh viện K.
Đất nước ta đang trên đà phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với đó là nhu cầu sử dụng năng lư ...
Hiện nay tình trạng giết mổ gia súc, gia cầm thủ công tự phát đang xảy ra ở rất nhiều nơi. Với số lượng điểm giết mổ ...
Đặt vấn đề Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra cho sự nghiệp đổi mới đất nước, đó là ph ...
Tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày càng được ứng dụng phục vụ công cuộc chăm sóc sức khỏe con người nhiều hơn.Kỹ ...
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về " ...
Hỗ trợ download nhiều Website
Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay
Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay